THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM NHANH, BỀN VỮNG
Sáng 15/11 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị phát triển du lịch Việt Nam nhanh, bền vững theo hình thức trực tiếp tại trụ sở Chính phủ và kết nối trực tuyến tới trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trên cả nước.

Hội nghị Phát triển du lịch Việt Nam nhanh, bền vững diễn ra sáng 15/11 tại Hà Nội, kết nối tới trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trên cả nước – Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Cùng dự Hội nghị có Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Bộ trưởng các Bộ: VHTT&DL; LĐTB&XH; Thông tin và Truyền thông; Giao thông vận tải; NN&PTNT; Văn phòng Chính phủ; đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành liên quan; Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Hội nghị còn có sự tham dự của đại diện Hiệp hội Du lịch Việt Nam, các chuyên gia kinh tế, du lịch; đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp lớn ngành du lịch và hàng không.
Tìm lời giải cho các bài toán ngắn hạn, dài hạn phát triển du lịch nhanh, bền vững
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Du lịch được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị, góp phần quan trọng vào tạo việc làm, sinh kế cho người dân, xóa đói, giảm nghèo, thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
Đồng thời, du lịch là cầu nối giao lưu quốc tế thiết thực, hiệu quả, để khách du lịch khắp nơi trên thế giới đến thăm, trải nghiệm, hiểu hơn, chia sẻ hơn, yêu quý hơn đất nước, văn hóa, con người Việt Nam.
Hội nghị “Phát triển du lịch Việt Nam nhanh, bền vững” cũng là hội nghị chuyên đề về phát triển du lịch thứ hai được tổ chức trong năm 2023. Hội nghị được tổ chức trong không khí cả nước đang nỗ lực thực hiện đạt cao nhất các nhiệm vụ, mục tiêu của năm 2023, tạo đà cho những kết quả tốt hơn trong năm 2024; và cũng là giai đoạn đầu của mùa du lịch cuối năm (thường từ tháng 10 hằng năm đến tháng 3 năm sau).
Thời gian qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường, khó khăn, thách thức bất thường, phức tạp hơn so với cơ hội, thuận lợi và so với dự báo. Trong nước, Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn, nội lực chưa lớn, sức chống chịu và khả năng thích ứng còn hạn chế và với độ mở nền kinh tế lớn nên chịu tác động nhiều bởi diễn biến tình hình thế giới.
Bên cạnh những khó khăn, chúng ta cũng có không ít thời cơ và thuận lợi. Vấn đề là phải cùng nhau khai thác tốt nhất các cơ hội, nhận diện, hóa giải khó khăn, vượt qua thách thức.
Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng hành, ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân, thời gian qua, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm.
Du lịch Việt Nam trong 10 tháng qua có khởi sắc hơn, đến hết tháng 10/2023, tổng lượng khách du lịch quốc tế đạt khoảng 10 triệu lượt, khách du lịch nội địa đạt 99 triệu lượt.
Tuy nhiên, khách du lịch quốc tế 10 tháng năm 2023 mới chỉ bằng 69% so với cùng kỳ năm 2019 (thời điểm trước đại dịch). Khách du lịch nội địa, sau giai đoạn tăng trưởng mạnh trong năm 2022, đang có dấu hiệu chững lại. Ngành du lịch phải đối mặt với nhiều thách thức, vướng mắc, nhiều vấn đề kéo dài nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ chưa giải quyết được.
Để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017); triển khai hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch (Nghị quyết số 82/NQ-CP ngày 18/05/2023); hoàn thành mục tiêu đến năm 2025 đón ít nhất 35 triệu lượt khách quốc tế và 120 triệu lượt khách nội địa, đến năm 2030 đón 50 triệu lượt khách quốc tế, 160 triệu lượt khách nội địa, du lịch Việt Nam cần thực sự đổi mới tư duy, cách làm với các biện pháp sáng tạo, đột phá, đồng bộ, hiệu quả; thực hiện “liên kết chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng, hợp tác toàn diện”.
Với tinh thần đó, Thủ tướng đề nghị Hội nghị trao đổi, thảo luận để tìm được lời giải cho các bài toán ngắn hạn, dài hạn; tìm ra những câu trả lời cho một số vấn đề trọng tâm để ngành du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững:
Một là, nhận diện thời cơ và thách thức của Du lịch Việt Nam.
Hai là, chia sẻ kinh nghiệm thành công của Việt Nam, của các nước trên thế giới, những cách làm hay, bài học quý.
Ba là, các hiệp hội, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu, chuyên gia và từng bộ, ngành, địa phương cùng nhau trao đổi, đề xuất giải pháp đột phá, cụ thể, khả thi để tháo gỡ khó khăn, vượt qua thách thức, tận dụng thời cơ, tạo điều kiện thuận lợi phát triển du lịch Việt Nam nhanh và bền vững. Trong đó, tập trung nêu rõ những vấn đề thể chế, cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực để phát triển hạ tầng, thương hiệu, đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao năng lực quản trị của quốc gia, của từng địa phương và từng doanh nghiệp phù hợp với điều kiện mới, công tác phối hợp của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong ngành du lịch và doanh nghiệp ngoài ngành du lịch…”

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng báo cáo đánh giá thực trạng hoạt động du lịch thời gian qua; định hướng và các giải pháp phát triển du lịch Việt Nam nhanh, bền vững
Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng báo cáo đánh giá về thực trạng hoạt động du lịch thời gian qua; định hướng và các giải pháp phát triển du lịch Việt Nam nhanh, bền vững.
Như chúng ta đã biết, ngày 15/3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chủ trương mở cửa lại hoàn toàn thị trường du lịch, ngày 15/3/2023, tròn 1 năm mở cửa, Thủ tướng Chính phủ chủ trì Hội nghị toàn quốc về du lịch, sau đó Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 82/NQ-CP – Nghị quyết chuyên đề về phát triển du lịch. Và hôm nay, ngày 15/11/2023, từ sự trăn trở, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng để du lịch phát triển nhanh, bền vững trước thềm mùa khách du lịch quốc tế mới, Bộ VHTT&DL phối hợp với các bộ, ngành liên quan chuẩn bị kỹ lưỡng các nội dung cho Hội nghị.
Năm 2023, trong bối cảnh quốc tế, trong nước còn nhiều thách thức, song với sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nỗ lực của Bộ VHTT&DL, sự tích cực của các bộ, ngành, địa phương, sự đồng hành của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, ngành du lịch Việt Nam đã đạt được một số kết quả nổi bật:
Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển du lịch, hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch tiếp tục được rà soát, điều chỉnh, bổ sung và ban hành kịp thời. Các vấn đề tạo thuận lợi cho khách du lịch quốc tế có chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt là thủ tục xuất nhập cảnh, thị thực. Sản phẩm du lịch được làm mới, hấp dẫn hơn và có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Nhiều điểm đến mới được đầu tư, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch được cải thiện. Công tác phát triển du lịch được phát triển đặt trong tổng thể công tác văn hóa đối ngoại, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa, hoạt động thể thao, hoạt động xúc tiến đầu tư thương mại. Các sự kiện du lịch được tổ chức có trọng tâm, trọng điểm, có sức hấp dẫn, lan tỏa tại các địa phương, nhận thức của toàn xã hội về vai trò, vị trí, đóng góp của ngành du lịch có chuyển biến tích cực. Trong 10 tháng đầu năm 2023, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 10 triệu lượt (hơn 9,998 triệu lượt), tăng gấp 4,6 lần so với cùng kỳ năm trước, vượt chỉ tiêu kế hoạch cả năm; khách nội địa đạt 98,7 triệu lượt khách; tổng thu từ khách du lịch đạt 582,6 nghìn tỷ đồng. Theo tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, du lịch là một điểm sáng trong phục hồi nền kinh tế, kết quả phục hồi du lịch có tác động lan tỏa tới nhiều lĩnh vực, góp phần cải thiện ba động lực tăng trưởng của nền kinh tế là đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng. Cùng với đó, Du lịch Việt Nam nhận 54 giải thưởng của Giải thưởng World Travel Awards năm 2023, nổi bật là giải thưởng “Điểm đến hàng đầu châu Á 2023” và “Điểm đến thiên nhiên hàng đầu châu Á 2023, tiếp tục khẳng định thương hiệu và vị thế của du lịch Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành du lịch Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam phục hồi tương đối chậm, chưa đáp ứng kỳ vọng của các đồng chí lãnh đạo, của ngành, của cộng động doanh nghiệp. Nguyên nhân của hạn chế này là:
– Một số thị trường trọng điểm truyền thống mở cửa từng bước, chưa lấy lại tốc độ tăng trưởng như trước đại dịch;
– Công tác kết nối, khai thác các thị trường mới, thị trường tiềm năng còn chậm, gặp nhiều khó khăn;
– Xu hướng lựa chọn các điểm đến gần thay vì lựa chọn điểm đến có khoảng cách xa của một số thị trường trọng điểm của Việt Nam;
– Việc chậm kết nối, chậm khôi phục tần suất các đường bay quốc tế như trước dịch COVID-19;
– Các yếu tố tác động khác như lạm phát, tỉ giá tăng, xung đội chính trị, hầu bao cho du lịch của du khách sụt giảm … đã ảnh hưởng lớn đến lượng khách quốc tế đến Việt Nam thời gian qua;
– Truyền thông chính sách, cập nhật, quảng bá thông tin về những quy định mới của Du lịch Việt Nam còn hạn chế, thiếu kịp thời tại các thị trường nguồn quốc tế do thiếu hệ thống văn phòng xúc tiến du lịch quốc gia, sự phối hợp chưa thực sự chặt chẽ giữa các cơ quan trong nước với các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài;
– Công tác quản lý điểm đến tại một số địa phương có biểu hiện thiếu quyết liệt, chưa kịp thời xử lý các vấn đề về ô nhiễm môi trường, rác thải, tình trạng “chặt, chém” du khách…làm ảnh hưởng đến hình ảnh, thương hiệu du lịch Việt Nam.
Trong thời gian tới, nhằm tranh thủ tốt các thời cơ, khắc phục các khó khăn, thách thức, tạo ra đột phá trong phục hồi và phát triển du lịch, Bộ VHTT&DL đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp như sau:
Một là, tiếp tục tăng cường phối hợp liên ngành, nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách tạo thuận lợi hơn nữa cho việc phục hồi, phát triển du lịch
– Nghiên cứu đề xuất miễn thị thực ngắn hạn cho khách du lịch từ một số thị trường tiềm năng, quy mô lớn như Trung Quốc, Ấn Độ… nhằm kích cầu du lịch, đặc biệt là vào mùa thấp điểm. Mở rộng miễn thị thực đơn phương cho công dân các nước có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam, chi tiêu du lịch lớn như Australia, Canada, Mỹ, các nước còn lại trong Liên minh châu Âu…
Xem xét, thí điểm việc cấp thị thực tại cửa khẩu trên cơ sở xét duyệt nhân sự tại chỗ cho khách du lịch quốc tế. Thí điểm cấp thị thực dài hạn (3 năm, 5 năm) để thu hút các phân khúc thị trường khách du lịch cao cấp, khách nghỉ hưu.
– Tối ưu hóa, đơn giản hoá quy trình xin cấp thị thực điện tử, đảm bảo giao diện trang web đơn giản, dễ thao tác, hiển thị thông báo cụ thể về thời gian trả kết quả thị thực.
– Tiếp tục tăng cường hợp tác với các quốc gia, vùng lãnh thổ, các hãng hàng không quốc tế hàng đầu để xúc tiến mở các đường bay mới và tăng tần suất các chuyến bay thẳng hiện có giữa các địa bàn trọng điểm du lịch của Việt Nam và các thành phố cấp 1, cấp 2 của các thị trường khách du lịch mục tiêu. – Thúc đẩy hợp tác giữa ngành hàng không và ngành du lịch theo tinh thần “lợi ích thì hài hòa, khó khăn thì chia sẻ”, mang lại lợi ích lâu dài cho tất cả các bên liên quan (về vấn đề giá vé máy bay).
– Đề xuất sửa đổi Luật Cơ quan đại điện nước CHXHCN Việt Nam ở nước ngoài, trong đó cho phép lập văn phòng xúc tiến du lịch tại các thị trường trọng điểm trên thế giới.
– Sớm thực hiện điều chỉnh giá điện áp dụng cho các cơ sở lưu trú du lịch ngang bằng với giá điện sản xuất những năm tới theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, giúp các doanh nghiệp du lịch giảm chi phí đầu vào trong bối cảnh còn nhiều khó khăn hiện nay.
– Đề xuất kéo dài thời gian nộp thuế VAT thêm 12 – 24 tháng, hoãn thời gian nộp tiền thuê đất.
– Xem xét, giảm lãi suất ngân hàng cho các khoản vay của doanh nghiệp du lịch theo nguyên tắc lãi suất cho vay không cao quá 3% so với lãi suất gửi. Nới lỏng quy định cho vay của các ngân hàng thương mại cho các khoản vay vốn lưu động. Gia hạn các khoản vay bị tác động trực tiếp bởi đại dịch COVID-19.
– Xem xét, tháo gỡ khó khăn đối với hoạt động kinh doanh du lịch trên đất nông nghiệp và đất trang trại.
– Mở rộng danh sách các thành phố thực hiện thí điểm phát triển kinh tế đêm.
– Sớm đề xuất thành lập Hội đồng nghề du lịch quốc gia và Ủy ban chứng nhận nghề du lịch quốc gia để triển khai thỏa thuận lẫn nhau trong nghề du lịch ASEAN, chuẩn hóa đội ngũ lao động, tạo điều kiện lao động ngành du lịch có nhiều cơ hội việc làm và nâng cao trình độ.
– Nghiên cứu, đề xuất các chính sách hỗ trợ phát triển du lịch đêm, du lịch nông nghiệp nông thôn, du lịch cộng đồng, du lịch bền vững, du lịch MICE, du lịch gắn với công nghiệp văn hóa và công nghiệp sáng tạo.
– Đề xuất các chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch quốc tế; chính sách thuế đất phù hợp đối với các khu du lịch; chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng gắn với du lịch, khuyến khích hợp tác công – tư trong đầu tư và vận hành sân bay, bến cảng du lịch; các chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng các công viên chủ đề, công trình văn hóa, tổ hợp vui chơi, giải trí, trung tâm thương mại, dịch vụ bán lẻ…
Hai là, đẩy mạnh phối hợp liên vùng, liên địa phương, hình thành chuỗi giá trị, sản phẩm du lịch và xây dựng môi trường du lịch văn minh, an toàn, thân thiện
– Đa dạng hóa các hình thức liên kết, hợp tác; thực hiện hiệu quả cơ chế điều phối, quy chế hoạt động, kế hoạch hành động vùng, liên vùng trong liên kết phát triển sản phẩm, thị trường, xúc tiến quảng bá, xây dựng thương hiệu; kết nối tour, tuyến, điểm du lịch; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật; đào tạo nguồn nhân lực; nhân rộng mô hình hợp tác công – tư trong quản lý điểm đến cấp vùng, cấp địa phương.
– Phát huy vai trò của Hiệp hội du lịch các địa phương, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lữ hành, vận chuyển khách du lịch nhằm tăng khả năng điều phối, luân chuyển khách giữa các vùng, địa phương theo các tour du lịch, chương trình du lịch.
– Tăng cường liên kết giữa ngành du lịch với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị, hình thành các sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo như du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm, du lịch chữa bệnh, du lịch ẩm thực…
– Đẩy mạnh quản lý điểm đến, kiểm soát sức chứa tại khu, điểm du lịch, tạo dựng môi trường du lịch văn hóa, văn minh, thân thiện, mến khách.
Ba là, tập trung triển khai quyết liệt các hoạt động xúc tiến du lịch, đẩy nhanh tốc độ phục hồi thị trường khách du lịch quốc tế
– Để chuẩn bị tốt các điều kiện phục vụ mùa cao điểm đón khách du lịch quốc tế vào cuối năm 2023 và đầu năm 2024, tận dụng hiệu quả các chính sách về thị thực, xuất nhập cảnh mới được ban hành, cần khẩn trương, tăng cường triển khai các hoạt động xúc tiến quảng bá, kích cầu để thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Tăng cường các hoạt động quảng bá xúc tiến trực tiếp tại các thị trường quốc tế trọng điểm, truyền thống và các thị trường mới, tiềm năng, gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Tây Âu, Bắc Mỹ, Australia, Ấn Độ, Trung Đông…
– Thúc đẩy quan hệ đối tác công – tư, tranh thủ nguồn lực của các doanh nghiệp, hãng hàng không, các đối tác phân phối lớn cả ở trong và ngoài nước trong hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch, mở rộng khả năng vươn tới các thị trường trọng điểm và tiềm năng.
– Thúc đẩy các hoạt động marketing kỹ thuật số.
Bốn là, phát triển sản phẩm, dịch vụ du lịch có thương hiệu, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh cao, thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực du lịch
– Tập trung phát triển, làm mới các sản phẩm du lịch chủ lực, các sản phẩm du lịch chuyên đề. Củng cố cơ sở vật chất phục vụ các yêu cầu chuyên biệt của một số nhóm khách đang là thị trường tiềm năng.
– Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ sinh thái du lịch thông minh, hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, kinh doanh dịch vụ du lịch, nâng cao trải nghiệm du khách.
– Tiếp tục thực hiện Đề án “Phát triển nguồn nhân lực du lịch thích ứng với tác động của đại dịch COVID-19 giai đoạn 2021 – 2030”. Đẩy mạnh đào tạo bổ sung mới, đảm bảo đủ nguồn nhân lực thiếu hụt do việc chuyển việc, thôi việc thời gian qua.
Năm là, thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp du lịch, tạo môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ trong chuỗi giá trị sản phẩm du lịch
– Tăng cường liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp du lịch và dịch vụ liên quan để kích cầu du lịch, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia, hướng tới mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam. Các hãng hàng không cần duy trì chính sách giá vé máy bay linh hoạt, bình ổn, doanh nghiệp du lịch cần đa dạng trong cung ứng dịch vụ và chính sách giá linh hoạt, phù hợp, để hợp tác tạo ra các chương trình, gói sản phẩm du lịch hấp dẫn, cạnh tranh.
– Thúc đẩy phát triển các mô hình liên kết chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch như ăn uống, lưu trú, vận chuyển, giải trí, mua sắm… có tính kết nối chặt chẽ, vừa giúp tối ưu hóa chi phí, đa dạng hệ sinh thái chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, vừa mang lại cho du khách những trải nghiệm chất lượng, chuyên nghiệp.
– Hiệp hội Du lịch Việt Nam và hiệp hội du lịch các địa phương phát huy vai trò liên kết, giúp các doanh nghiệp cùng nhau vượt qua khó khăn, chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững.
Tại Hội nghị, Bộ trưởng VHTT&DL mong muốn các đại biểu tập trung đề xuất, hiến kế các định hướng, giải pháp nhằm đổi mới nền tảng cạnh tranh, tìm ra các động lực tăng trưởng mới để phát triển nhanh và bền vững.

Ông Vũ Thế Bình, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam
Ông Vũ Thế Bình, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam: Chính phủ hết sức quan tâm đến du lịch. Trong thời gian ngắn đã có 2 hội nghị mang tính toàn quốc về du lịch, cho thấy rõ ràng du lịch đang là vấn đề nóng, cần thiết nên Chính phủ rất quan tâm.
Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã tập trung hỗ trợ nhiều cho du lịch, có những chính sách như mở cửa sớm, đặc biệt triển khai Nghị quyết 82 vừa ra, đưa ra kế hoạch hành động rất chi tiết, đầy đủ để khôi phục và phát triển nhanh du lịch.
Quốc hội cũng thông qua Luật Xuất nhập cảnh mới tạo điều kiện thuận lợi rất lớn cho khách du lịch vào Việt Nam. Như thế, Chính phủ đã cố gắng hết sức và điều chúng tôi quan tâm là bản thân người làm du lịch phải tích cực nhất có thể để đáp ứng được mong muốn của Chính phủ.
Trong 10 tháng vừa qua, ngành du lịch đã cố gắng hết sức nhưng còn nhiều điều chưa đạt được. Tuy khách của chúng ta tăng nhanh, nội địa cũng tăng nhanh nhưng tốc độ đã suy giảm. Quan trọng là thu từ khách nội địa giảm khá nhiều nên ở đây phải bàn kỹ hơn về du lịch nội địa. Quốc tế thì chúng ta đã đạt vượt mức đề ra trong kế hoạch, nhưng phải lưu ý là kế hoạch của chúng ta đặt ra rấp thấp, nên có vượt thì phải gấp đôi mới tương xứng với các nước trong khu vực được. Còn 2 tháng cuối năm, phải quyết liệt thu hút nhiều nhất có thể với khách quốc tế.
Trước dịch COVID-19 chúng ta có khoản 40.000 doanh nghiệp với 2,5 triệu lao động, ngành du lịch đóng góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho người dân ở vùng sâu vùng xa. Dịch COVID-19 làm tê liệt tất cả các hoạt động du lịch nhiều vùng miền.
Tác động của COVID-19 hết sức nặng nề đối với xã hội và ngành du lịch. Qua sự tăng trưởng của 1 năm vừa rồi, có lẽ chúng ta chưa thấy hết, chưa có đầy đủ kinh nghiệm khi phòng chống COVID-19 như thế nào. Cho nên vừa mở cửa trở lại, du lịch lại bắt đầu tăng ào ào , tất cả tình trạng cũ của du lịch lại tái phát, ví dụ như chặt chém, tăng giá tùy tiện, chỗ đông chỗ ít, lộn xộn trong hoạt động du lịch.
Ở đây có một số nguyên nhân của việc tăng trưởng không như mong muốn của Chính phủ. Thứ nhất, về vĩ mô thì việc liên kết, kết nối giữa các vùng miền, các ngành, các doanh nghiệp đều không được tốt. Khi có dịch COVID-19 thì sự kết nối rất tuyệt vời. Chúng tôi liên kết giữa các loại hình du lịch lại với nhau, mở các thị trường. Thậm chí khi dịch COVID căng thẳng, chúng tôi vẫn tổ chức được Hội nghị về lữ hành với 450 doanh nghiệp tham gia vào tháng 1/2021, sau đó tháng 4/2021 có hội 700 doanh nghiệp ở Ninh Bình để bàn vấn đề phát triển du lịch nội địa như thế nào. Lúc đó mọi người người chia sẻ kinh nghiệm, kết hợp với nhau, kết nối từng sản phẩm để tạo ra hướng phát triển. Ngay trong lúc COVID-19 nặng nề nhất, ngành du lịch vẫn tồn tại, ở nhiều tỉnh vẫn hoạt động được, tránh luồng COVID-19 thôi nhưng vẫn hoạt động.
Du lịch hết COVID-19 thì những nỗ lực ấy, liên kết ấy hình như biến mất, lại quay trở lại tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, lại tăng giá, hạ giá và lộn xộn.
Việc không triển khai khuyến mại kích cầu, giá tăng cao quá, không xây dựng được sản phẩm có tính cạnh tranh khiến khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài nhiều hơn trong nước. Tôi thấy tình trạng này phải chấn chỉnh lại.
Tại sao chúng ta không thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế? Ở đây công tác xúc tiến du lịch triển khai còn chậm và rất ít hiệu quả. Việc triển khai xúc tiến ở nước ngoài để thu hút khách quốc tế vào Việt Nam triển khai quá ít, nhiều hội chợ quốc tế quan trọng hàng đầu thế giới bị bỏ qua (WTM London, JATA Tokyo Nhật Bản) hoặc tham gia cầm chừng (chỉ địa phương tham gia) khiến hình ảnh du lịch Việt Nam mờ nhạt so với doanh nghiệp quốc tế.
Các tỉnh, thành phố tập trung quá nhiều cho việc tổ chức các hoạt động bề nổi ở trong nước như lễ hội, các sự kiện chính trị, văn hóa, kinh tế gắn với du lịch. Gắn với du lịch nhưng không đạt được mục tiêu bởi lễ hội vốn sinh ra từ phong tục tập quán dân tộc, từ đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư. Khách du lịch rất ít quan tâm đến các lễ khai mạc hoành tráng, các cuộc biểu diễn văn nghệ của hàng nghìn diễn viên không chuyên, những người phải bỏ hàng tháng để tập luyện. Khách du lịch chỉ quan tâm bản sắc văn hóa truyền thống. Nếu như những kinh phí đó chuyển sang cho hoạt động xúc tiến du lịch quốc tế sẽ phát huy nhiều hơn.
Nhân lực của thị trường thì thiếu trầm trọng, hiện nay ngành du lịch mới chỉ thu hút được khoản 60% lao động. Nhiều lao động có nghiệp vụ cao đã chuyển sang ngành khác. Nhiều doanh nghiệp du lịch, đặc biệt là các cơ sở lưu trú phải sử dụng cả lao động chưa qua đào tạo để phục vụ khách.
Việc đầu tư nghiên cứu, xây dựng các sản phẩm du lịch mới còn quá ít. Hiện nay phải đầu tư cho du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch ẩm thực, du lịch MICE, du lịch nông thôn. Cái này chưa phát triển thành chính sách cụ thể thành ra những sản phẩm này chưa được đầu tư.
Chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau.
Thứ nhất, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các ngành tập trung thực hiện một số chính sách đã ban hành như Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị, đặc biệt là điều chỉnh giá điện của các cơ sở lưu trú du lịch.
Đề nghị điều chỉnh thời hạn triển khai một số chính sách trong thời gian COVID-19 như Nghị định số 94/2021 của Chính phủ về mức ký quỹ kinh doanh dịch vụ lữ hành, vấn đề phí thẩm định giấy phép lữ hành, vấn đề giấy phép… những gì chúng ta đã quy định, chúng tôi đề nghị Chính phủ cho phép kéo dài thời hạn thực hiện sang hết năm 2023.
Về huy động các nguồn lực để triển khai nhanh các công việc. Mấu chốt là vấn đề nguồn lực. Các doanh nghiệp của chúng ta chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn lực quá yếu. Tôi đề nghị cho phép các doanh nghiệp được tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi từ phía Nhà nước.
Cơ cấu lại thị trường quốc tế, đẩy mạnh xúc tiến du lịch. Đề nghị đổi mới hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch để đẩy mạnh những hoạt động mà chúng tôi vừa đề xuất.
Chuyển hướng du lịch sang du lịch xanh để phát triển bền vững, trong đó cốt lõi là bảo vệ môi trường và chuyển các dịch vụ du lịch sang dịch vụ du lịch xanh, lưu ý vấn đề rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa.
Đẩy mạnh các sản phẩm du lịch mới, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Chính phủ đã đưa ra các chính sách đào tạo nhưng thực ra rất khó đến với doanh nghiệp. Chúng tôi đề nghị để hỗ trợ cho du lịch, tốt nhất là ban hành chính sách cụ thể như có thể cho mỗi doanh nghiệp 10-15 người, trong thời gian ngắn có thể tạo nguồn lực để triển khai.
Với sự chỉ đạo, kiểm tra, hỗ trợ mạnh mẽ, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc mạnh mẽ của Bộ VHTT&DL, đặc biệt là sự triển khai tích cực, nghiêm túc của các tỉnh, thành phố trên cả nước, sự cố gắng của các doanh nghiệp du lịch, du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ đạt được kết quả tốt đẹp hơn trong năm 2024, để du lịch thực sự là nền kinh tế mũi nhọn.

UBND tỉnh Kiên Giang kết nối trực tuyến Hội nghị phát triển du lịch Việt Nam nhanh, bền vững
Ông Lâm Minh Thành, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang: Kiên Giang xác định du lịch là ngành kinh tế trọng điểm trong chương trình phát triển KTXH của tỉnh, nhất là sau khi quán triệt Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị khóa XIII, Nghị quyết 103 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08 về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn và tiếp thu Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội đảm bảo quốc phòng an ninh khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 tầm nhìn 2045 và Nghị quyết 78 của Chính phủ.
Chúng tôi đã và đang tập trung xây dựng đề án phát triển Phú Quốc thành trung tâm du lịch sinh thái biển đảo tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Để thực hiện nhiệm vụ này, từ năm 2027, Tỉnh ủy Kiên Giang đã ban hành Nghị quyết về phát triển du lịch tỉnh Kiên Giang đến năm 2020 tầm nhìn 2030. UBND tỉnh Kiên Giang cũng đã cụ thể hóa thành kế hoạch với 8 nhóm nhiệm vụ giải pháp phát triển ngành du lịch toàn diện cả về phạm vi quy mô chất lượng dịch vụ, đảm bảo tính bền vững. Phấn đấu đến năm 2030 du lịch Kiên Giang thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn.
Với sự quyết liệt trong chỉ đạo điều hành của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, du lịch của Kiên Giang trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt là sau đại dịch, thực hiện chính sách phục hồi và phát triển KTXH của Chính phủ, du lịch Kiên Giang đã có sự phục hồi mạnh mẽ, là 1 trong những địa phương được Chính phủ chọn để thí điểm đón khách du lịch quốc tế trở lại.
Cùng với nhiều giải pháp được triển khai quyết liệt nên Kiên Giang có tốc độ tăng trưởng cao về du lịch. Năm 2022 Kiên Giang đón hơn 7,5 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế là 223 nghìn lượt khách, doanh thu hơn 10,5 nghìn tỷ đồng. Trong năm 2023, du lịch Kiên Giang duy trì đà tăng trưởng khá tuy nhiên cũng có thời điểm du lịch giảm cục bộ so với cùng kỳ. Đấy là dịp 30/4-1/5, khách nội địa giảm 9,4% nhưng khách quốc tế tăng 9% so với cùng kỳ. Dịp lễ 2/9 lượng khách giảm 32,9% so với cùng kỳ và khách quốc tế cũng suy giảm.
Tuy nhiên, qua 10 tháng của năm 2023, ngành du lịch Kiên Giang vẫn đạt mức tăng trưởng cao so với kế hoạch, đó là điểm sáng và có đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung của tỉnh. Từ cuối tháng 10 đến nay, lượng khách du lịch có sự tăng mạnh trở lại, nhất là khách quốc tế. Từ đây đến cuối năm, sẽ đón tiếp 3 chuyến bay của khách Ấn Độ tổ chức đám cưới tại Phú Quốc. Năm 2023 Kiên Giang đón trên 8,5 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đón trên 573.000 lượt khách, tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ. Tổng thu từ du lịch ước đạt 17,5 nghìn tỷ đồng, tăng 65,1% so với cùng kỳ.

Hiệp hội Du lịch Kiên Giang tham dự Hội Nghị phát triển du lịch Việt Nam nhanh, bền vững
Du lịch Kiên Giang có sự phát triển nhanh, tuy nhiên quá trình hồi phục du lịch, cũng như các địa phương khác, cũng gặp không ít khó khăn thách thức và hạn chế nhất định. Trước hết, tác động tiêu cực của tình hình thế giới, khách quốc tế đến Việt Nam nói chung, Kiên Giang nói riêng sụt giảm, không ổn định.
Thứ hai, cạnh tranh giữa các điểm đến, khu, điểm du lịch trong khu vực. Giá vé máy bay từ các thị trường du lịch lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, cả đường bay quốc tế đến Phú Quốc luôn cao hơn các địa phương khác, kể cả trong ngày thường chứ không riêng dịp lễ Tết. Có những thời điểm một vé khứ hồi chặng Hà Nội-Phú Quốc có giá trên 10 triệu đồng. Những điều này cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn điểm đến.
Khó khăn thứ ba là việc tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch chưa thực sự hiệu quả, nhất là sau đại dịch có tình trạng cạnh tranh giữa các điểm đến.
Về chủ quan, sản phẩm dịch vụ du lịch của tỉnh mặc dù đã quan tâm đầu tư nhưng chưa thực sự đa dạng, hấp dẫn đối với du khách trong tình hình mới. Hiện nay mới chỉ khai thác tài nguyên du lịch biển đảo là chính, khai thác giá trị về văn hóa lịch sử di tích danh thắng phục vụ phát triển du lịch còn hạn chế. Công tác xúc tiến quảng bá tuy có quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao. Từ khi mở cửa trở lại, hoạt động du lịch chỉ mới tập trung quảng bá trong nước là chính, xúc tiến quảng bá ở nước ngoài còn hạn chế, nhiều khách quốc tế chỉ biết đến Kiên Giang, Phú Quốc qua các kênh gián tiếp. Công tác tuyên truyền, phổ biến cách ứng xử văn minh du lịch chưa được thường xuyên.
Chúng tôi kiến nghị Chính phủ trước mắt sớm kết nối nhiều hơn đường bay quốc tế, tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam tại nước ngoài. Thực hiện chính sách thị thực linh hoạt. Xem xét điều chỉnh giá điện áp dụng cho các cơ sở lưu trú du lịch ngang bằng với giá điện sản xuất cho phù hợp Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận Hội nghị
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, VPCP, các Bộ, ngành, địa phương đã chuẩn bị kỹ, chu đáo Hội nghị, những ý kiến phát biểu tâm huyết, sâu sắc, sát thực tiễn, cho thấy quyết tâm cao phát triển đột phá ngành du lịch, dưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn theo tinh thần đi sau nhưng phải vượt lên trước; yêu cầu các cơ quan liên quan tiếp thu các ý kiến, sớm hoàn thiện, trình ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát triển du lịch toàn diện, nhanh và bền vững thời gian tới.
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết tâm, quyết liệt, tập trung triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; bám sát thực tiễn, ban hành các văn bản và chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau.
Về những kết quả phục hồi và phát triển du lịch, các báo cáo và ý kiến phát biểu đã đề cập đầy đủ, Thủ tướng cho rằng, những kết quả này là khá tích cực cả về phát triển nguồn lực, sản phẩm và đóng góp với nền kinh tế – xã hội. Điều đó giúp ngành du lịch tự tin để phát triển, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước. Nếu chúng ta có chính sách, chủ trương đúng, tổ chức thực hiện tốt thì hiệu quả mang lại rất cao.
Theo Thủ tướng, du lịch Việt Nam còn nhiều tiềm năng khác biệt, lợi thế cạnh tranh, cơ hội nổi trội để tiếp tục phát triển thời gian tới. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, hạn chế, yếu kém. Thể chế, chính sách, pháp luật cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Xây dựng thương hiệu du lịch đặc sắc Việt Nam
Liên kết chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng, hợp tác toàn diện
Thời gian tới, các cấp, các ngành, các địa phương và các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch cần nghiêm túc thực hiện Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 82 của Chính phủ với phương châm “liên kết chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng, hợp tác toàn diện”, trong đó tập trung:
(1) Thực hiện liên kết toàn diện, hiệu quả, phân công trách nhiệm rõ ràng.
(2) Chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch, bảo đảm đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và chất lượng, phù hợp với yêu cầu của cạnh tranh và hội nhập.
(3) Xây dựng các mô hình, sản phẩm du lịch mới, độc đáo trên cơ sở tiềm năng khác biệt, lợi thế cạnh tranh.
(4) Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến, quảng bá du lịch.
(5) Tăng cường quản lý môi trường du lịch, bảo tồn và phát huy các giá trị tự nhiên, văn hóa.
(6) Đẩy nhanh chuyển đổi số; hình thành và phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh ở Việt Nam.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tập trung phát triển cơ sở dữ liệu, các nền tảng số kết nối thông tin cho hoạch định chính sách, điều hành, quản lý nhà nước và phục vụ doanh nghiệp, khách du lịch trong nước, quốc tế; xây dựng, hoàn thiện hệ sinh thái du lịch thông minh.
Các địa phương cần bố trí nguồn lực phù hợp cho công tác chuyển đổi số trong phát triển du lịch của địa phương mình, đồng bộ với nội dung chuyển đổi số do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì thực hiện.
* Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch, Ban Chỉ đạo phát triển du lịch các địa phương: Tiếp tục duy trì hoạt động và làm tốt công tác chỉ đạo, điều phối sự hợp tác, liên kết của các Bộ, ban, ngành, đoàn thể trong phát triển du lịch; kịp thời chỉ đạo xử lý những khó khăn vướng mắc, đề xuất chính sách mới phù hợp với thực tiễn của đất nước, xu hướng phát triển của thế giới.
* Hiệp hội Du lịch Việt Nam: Phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò kết nối cộng đồng doanh nghiệp du lịch. Trong đó, tích cực tham gia, tổ chức các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch; hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động, làm giàu chính đáng, tuân thủ đúng pháp luật và các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Kịp thời phát hiện, tổng hợp ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp du lịch để đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
* Cộng đồng doanh nghiệp du lịch: Phát huy tính năng động, sáng tạo và vai trò động lực của doanh nghiệp trong phục hồi du lịch. Đẩy mạnh kết nối, hợp tác hỗ trợ cùng nhau vượt qua khó khăn. Đổi mới mô hình kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với chuyển đổi số và đổi mới, sáng tạo; chủ động nâng cao năng lực quản trị, chất lượng sản phẩm dịch vụ; tích cực tham gia các chương trình xúc tiến du lịch quốc gia. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, nói không với tiêu cực. Đề cao ý thức, trách nhiệm với xã hội, với cộng đồng; tham gia bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Thủ tướng khẳng định: Trên tinh thần “Lời nói đi đôi với việc làm”, “việc hôm nay chớ để ngày mai”, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết liệt chỉ đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các bộ, ngành, địa phương tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp cùng tham gia phát triển du lịch nhanh và bền vững.
Thủ tướng tin rằng, với sự nỗ lực, cố gắng của ngành du lịch, sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả của các bộ, ngành, sự liên kết và hợp tác đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương và sự hưởng ứng tích cực của người dân, cộng đồng doanh nghiệp sẽ tạo nên “sức mạnh tổng hợp to lớn” để du lịch Việt Nam phục hồi mạnh mẽ và “cất cánh”, thực hiện thành công Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị và đóng góp quan trọng vào việc thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng để tới năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, năm 2045 là nước phát triển, thu nhập cao.